PHONG KIỀU DẠ BẠC
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Dịch nghĩa :
Bến đêm Phong Kiều
Trăng lặn, quạ kêu, sương đầy trời
Một bên là cây bờ sông và đèn câu, một bên là giấc ngủ buồn
Từ chùa Hàn San bên ngoài thành Cô Tô
Nửa đêm tiếng chuông vọng đến thuyền khách.
Dịch ra thơ Đường luật :
Hải Đà:
Tiếng quạ kêu sương bóng nguyệt mờ
Cầu Phong đốm lửa giấc sầu mơ
Hàn Sơn khuất bãi Cô Tô vắng
Đêm điểm hồi chuông khách sững sờ...
Thu Tứ:
Trăng xế, quạ kêu, sương kín trời
Đèn lu, cây tối, ngủ buồn ơi
"Nửa đêm" chuông đánh, chùa đâu lạ
Tỉnh giấc ai ơi, sắp sáng rồi!
Dịch ra thơ lục bát
Trần Trọng Kim:
Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi,
Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co.
Con thuyền đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
Nguyễn Hàm Ninh :
Trăng tà, tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Thu Tứ:
Quạ kêu trăng xế trời sương,
Đèn lu cây tối, chập chờn tỉnh mê.
Nửa đêm thức giấc nằm nghe,
Chùa đâu chuông đánh xa đưa tận thuyền.
Nguyễn Hàm Ninh dịch bài thơ của Trương Kế sang thể lục bát như sau: - Trích dẫn :
- Quạ kêu, trăng lặn, trời sương,
Lửa chài le lói sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Bài thơ dịch này, trước đây người ta đã nhầm là của Tản Đà, được kể là hay, chỉ tiếc là ông đã bỏ mất chữ giang phong và đã nhầm bến Phong Kiều là bến Cô Tô và cũng chưa diễn đạt được vai trò chủ thể của tiếng chuông chùa Hàn San nhưng nó vẫn được kể là bài dịch hay nhất từ trước đến nay.