XƯỚNG HỌA THƠ ĐƯỜNG LUẬT
Một trong những thú tao nhã của người làm thơ khi đến với thơ Đường luật là xướng họa. Bài thơ tâm huyết khi làm ra được khách đồng điệu cảm ứng đáp họa lại, điều đó không thể nói là không có niềm vui thích thú.
Xướng họa là “đặc sản” của thể thơ Đường luật. Hiện nay “đặc sản” ấy đã có một số thể loại thơ khác như lục bát, thất ngôn phân đoạn, thậm chí đến cả thơ mới “lấn sân”. Nhưng dù có bị “lấn sân” thì Đường luật vẫn giữ được thế “độc tôn” của mình đối với thú vui Xướng họa trong thơ.
Khi sáng tác thơ Đường luật, tác giả thường chọn lựa một trong hai cách cho tác phẩm của mình, đó là: Nội dung hay kỹ thuật chơi chữ. Những bài thơ chú trọng đến nội dung, thường được xuất phát từ cảm xúc chân tình, tư tưởng được diễn đạt theo dòng chảy riêng tư của nội tâm, không phải lệ thuộc vào sự sắp đặt chữ nghĩa, nội dung tư tưởng của người khác.
Kỹ thuật mãi về sau mới có. Các cụ ngày xưa trong lúc trà dư tửu hậu, ngẫu hứng dựa theo Đường luật chính thể, sáng tác thành nhiều thể khác nhau như : khoán thủ, yết hậu, độc vận, hoán cú đảo vận, đọc ngược đọc xuôi…vừa để làm vui, vừa để thử thách nhau. Nhưng dù có sử dụng theo hình thức nào thì quy củ căn bản một bài đường luật vẫn không thể thay đổi. Bởi phải uốn chữ nghĩa theo phần kỹ thuật nên sự cảm xúc bị hạn chế, không thể bung ra đến chỗ toàn diện được.
Cái khó của người họa thơ là phải tùy theo tác giả bài xướng đã đưa ra một bài thơ chú trọng về nội dung hay kỹ thuật để họa lại.
Chữ “họa” theo Hán tự còn có âm đọc là “ hòa”. Người họa thơ có thể tán thành hay phản bác lại tư tưởng của tác giả bài xướng, nhưng không được chuyển đổi nội dung đề tài bài xướng đã đề cập đến.
Ngày nay, thú chơi xướng họa đã trở thành “ trăm hoa đua nở”. Có người nhân ngày đám cưới của con, ngày về nhà mới, ngày dời chỗ ở, ngày giỗ kỵ thân nhân…chỉ là việc riêng tư không dây mơ rễ má gì với người khác cũng sáng tác một bài xướng rồi in ra nhiều bản gởi đi khắp nơi mời họa, bất kể chỗ thân tình hay người không quen biết.
Có người làm ra bài xướng cố ý dùng tử vận mời người khác họa nhằm mục đích thử thách nhau. Có người ngẫu hứng lấy thơ của người xưa làm bài xướng để họa lại. Đó là nói về người xướng, còn người họa thì sao? Bất kể cả luật lệ, bài xướng nói một đằng, bài họa nói một nẻo, chẳng ăn nhập đâu vào đâu, như thế gọi là họa lạc đề. Có người còn ghi vào bài thơ là: nương vận, hay mượn vần khi họa một bài không đúng với nội dung bài xướng. Thật ra, nếu chiếu theo luật bản quyền, thì bài xướng thuộc bản quyền của tác giả bài xướng, nếu muốn “ nương” hay “ mượn” vần của người khác thì phải xin phép, người ta có đồng ý hay không mới “ nương ” hay “ mượn”. Có người họa theo lối đảo vận (ngược vần từ dưới lên trên) hay loạn vận ( sử dụng vần tùy hứng trong bài nguyên tác). Tất cả những điều đó đều không nên, vì như thế là thiếu tôn trọng tác giả bài xướng.
Biết rằng xướng họa là một trong những thú vui tao nhã của sân chơi thơ Đường luật. Nhưng sân chơi nào cũng có nguyên tắc riêng, không thể phá vỡ ra ngoài được. Cụ Nguyễn Công Trứ chẳng đã từng nói: “nghề chơi cũng lắm công phu” hay sao?
Theo tôi, chỉ có hai điều kiện để họa thơ. Một là có sự đồng cảm và cảm xúc sâu xa với bài nguyên tác. Hai là được mời họa, nhưng phải biết bài nguyên tác ấy nằm ở phương diện nào. Dĩ nhiên, với thơ của người xưa thật tình chúng tôi không bao giờ dám họa vì sợ cho là thiếu tôn trọng với tiền nhân.
Theo nguyên tắc, trong xướng họa thơ Đường luật chỉ có hai cách để họa thơ. Một là thuận họa (đồng ý), hai là nghịch họa (không đồng ý). Nhưng dù có thuận họa hay nghịch họa nhất thiết đều phải đi theo đúng với nội dung tư tưởng của bài nguyên xướng, không thể lạc ra ngoài được. Bài nguyên tác cảm nhận về lợi ích của chiếc bàn, bài họa lại xoay qua chiêc ghế thì đó đâu phải là “hòa”? chỉ có thể cùng hướng chung về chiếc bàn để thấy có lợi ích (thuận họa) hay không thấy có lợi ích (nghịch họa)
Càng không thể họa theo lối đảo vận hay loạn vận. Mỗi chỗ đứng của vần trong bài nguyên xướng đều đã bao hàm ý nghĩa diễn đạt của tác giả, không thể đảo lộn vị trí để có thể nói là họa được.
Cũng có ý kiến cho rằng khi bài nguyên xướng gieo trắc (chữ thứ hai câu mở) bài họa phải hạ bằng, và ngược lại. Đây không phải là nguyên tắc bắt buộc mà chỉ nhằm đề phòng ngừa lúc họa không để ý, “vô tình” lập lại âm từ của bài nguyên xướng (chữ thứ sáu của mỗi câu) nên bài họa có thể hạ bằng hay hạ trắc gì cũng chẳng sao cả.
Thiết nghĩ, mỗi một lĩnh vực nào trong đời sống, đều có văn hóa riêng của nó, chẳng hạn như: văn hóa ẩm thực, văn hóa ứng xứ ... trong xướng họa thơ Đường luật cũng có nét văn hóa riêng, đó là văn hóa của kẻ sĩ. Ngày trước, Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị đã từng có cuộc bút chiến vô tiền khoáng hậu qua mười cặp bài xướng họa, nhưng vẫn giữ nề nếp, luật lệ và văn hóa của kẻ sĩ, biết tôn trọng nhau. Ngày nay, khi đáp họa một bài thơ, chúng ta nên cố gắng giữ nguyên đề bài, vì như thế, thứ nhất: chúng ta không sợ lạc đề, thứ hai: hàm ý tôn trọng tác giả bài xướng. Đó cũng là một nét văn hóa trong xướng họa thơ Đường luật vậy.
CÁC THỂ THỨC HỌA THƠ ĐƯỜNG LUẬT
Có 2 thể thức họa thơ Đường luật là : Họa Hạn Vận và Họa Phóng Vận
1. HỌA HẠN VẬN :
Là phải theo sự hạn định trước
-Diễn tả ý thơ theo đầu đề ra sẵn (nội dung)
-Dùng đúng 5 vần trong 8 câu (như ta vẫn thường họa)
2. HỌA PHÓNG VẬN :
Là như ta vẫn thường làm tức là theo nội dung và 5 vần của bài xướng
-Họa nguyên vận (như ta vẫn làm)
-Họa Đảo vận (đảo từ dưới lên trên)
-Họa hoán vận ( thay đổi vị trí vần của bài xướng)
-Họa Tá vận ( như ta thường làm nhưng không nhất thiết phải theo nội dung của bài xướng)
*CHÚ Ý : Trong họa thơ Đường tuyệt đối không được dùng lại các chữ thứ 6 của các câu :
1-2-4-6-8 của bài xướng, và bài đã họa trước đó, nếu tránh dùng lại được hết
các chữ của bài xướng là tốt nhất ngoại trừ các chữ không thể tránh được.
3. Bài xướng gieo luật gì thì bài họa phải đối lại luật đó
Bài xướng là vần bằng thì bài họa phải là vần trắc và ngược lại
4. Ngoài ra bài họa có thể đối lại ý của bài xướng
ví dụ bài xướng là khen thì bài họa có thể là chê (gọi là phản đề)
Trên đây là tất cả và đầy đủ nhừng gì cần thiết khi họa thơ Đường
*--Tiếng Tơ Lòng cố gắng nói đầy đủ ngắn gọn và dễ hiểu.
CHÚ Ý : Không được làm sai nghĩa hoặc thay đổi ý nghĩa của vần
ví dụ : xấu xa và dần xa khác hẳn nhau về nghĩa ( đại ý là vậy)
những cụm từ không thể thay thế được thì gọi là tử vận ( ví dụ
ót xa)
Những thành ngữ, chuyên ngữ thuật ngữ... và danh từ thì có thể
dùng không đúng vần (bất luận)
Chữ thứ 1 và 3 trong các câu nếu không tìm được từ nào thích hợp mà phải đổi vần thì cũng chỉ dùng bằng thay trắc
bắt buộc lắm không tìm được từ thay thế mới dùng trắc thay bằng
riêng chữ thứ 1 thì có thể đổi từ vần bằng sang vần trắc cũng không sao.
Chúc các bạn thành công !
Nói tóm lại họa thơ Đường luật là làm một bài thơ Đường theo 5 vần của bài xướng, có cùng chủ đề với bài xướng
bài xướng là vần bằng thì bài họa phải là vần trắc và ngược lại. tránh dùng lại từ thứ 6 của các câu 1, 2 ,4 ,6 và 8 của bài xướng hoặc các bài đã họa trước.
Nếu tránh được tất cả các từ của bài trước thì càng hay...
Ví dụ một vài bài xướng-họa
Bài xướng
XA CÁCH
Hoàng Anh
Tình đời đen trắng đổi thay mau
Tiếng nhớ lời thương đã úa nhàu
Kẻ ở âm thầm chôn tiếng nấc
Người đi lặng lẽ giấu niềm đau
Qua mùa dông bão lòng tê tái
Tới trận gió mưa dạ héo sầu
Muôn thuở tình yêu luôn cách trở
Ngàn năm lỗi hẹn bởi vì đâu
Bài họa của Minh Giang
NGAO NGÁN
Minh Giang
Chán ngán lòng người đổi quá mau
Tình yêu vừa thắm cớ sao nhàu
Niềm vui đột ngột thành buồn bã
Hạnh phúc bất ngờ hóa khổ đau
Chữ nhớ còn vương điều trái khoáy
Câu thương chẳng hết tiếng u sầu
Đất trời lắm buổi mưa rồi nắng
Duyên số hợp tan biết dễ đâu
Bài xướng
AO ƯỚC
Việt Hồng
Nỗi đời ai hiểu được cùng không
Đã sắp tàn xuân tuổi nụ hồng
Mây giỡn đường mơ đằng biển rộng
Mù giăng ngõ mộng phía lòng sông
Yêu vườn với bạn ngô đầy dõng
Mến ruộng cùng tôi lúa trĩu bông
Xe chỉ guồng tơ tình thắm mộng
Mà duyên chẳng đặng lấy đâu chồng
Bài họa của Minh Giang
NGHỊCH CẢNH
Minh Giang
Cuộc sống con người hiểu rõ không
Tình yêu chẳng có mỗi hoa hồng
Hỏi ai mang thước đo trời đất
Đâu đứa cầm cây dọ biển sông
Mưa nghịch ngay kỳ ngô trống dõng
Bão yên ở vụ lúa đầy bông
Mười năm những muốn chàng trong mộng
Chả biết vì sao vẫn muộn chồng
Bài xướng
ĐƠN ĐỘC
Thế Phiệt
Xóm lá nhờ ai dạy thể đường
Văn hay chữ tốt học vài chương
Trai tài chẳng dám nghinh đầu gió
Gái sắc còn e nép dưới sương
Cảm hứng còn tùy theo nỗi nhớ
Hồn thơ hệ lụy bởi niềm thương
Giờ này tri kỷ đâu xa vắng
Để lại mình ta nỗi đoạn trường
Bài họa
KHỔ LUYỆN
Minh Giang
Từ xưa đã được dạy thơ đường
Chẳng dám khoe vì biết mấy chương
Kiếm bạn không hiềm dầu bão tố
Tìm thầy chẳng quản dãi phong sương
Gò lưng luyện chữ nhìn mà cảm
Ưỡn ngực rèn âm ngó thấy thương
Niêm luật đau đầu đâu dám nản
Sợ uy danh tiếng cả ngôi trường
Bài xướng
TỦI PHẬN
Hoa Mai
Tha phương kiếm sống đã bao ngày
Thoắt cái đời trôi tựa áng mây
Lợi lộc, công danh - cơn gió thoảng
Khó nghèo, vất vả - trận mưa bay
Quê người lăn lóc thân mòn mỏi
Đất khách bon chen kiếp đọa đày
Tủi phận cô liêu trào nước mắt
Mong về cố xứ sớm càng hay!
Bài họa
THƯƠNG THÂN
Minh Giang
Thấm thoát xa quê cả vạn ngày
Tóc xanh nay đã nhuốm màu mây
Tiền tài xem nhẹ như hương tỏa
Danh lợi coi thường tựa khói bay
Xuôi ngược nhiều nơi mòn với mỏi
Dọc ngang lắm chốn đọa cùng đày
Thương Cha nhớ mẹ dòng châu chảy
Lệ đổ trong lòng mấy kẻ hay
Thơ đường luật thuận nghịch độc
Bài xướng của Minh Giang
(đọc xuôi)
TÌNH SAO THẾ
Minh Giang
Tình hỡi nhớ ai để mãi xa
Khổ đau bao cảnh chẳng chung nhà
Mình đây bóng xế đời vàng úa
Bạn đó tròn trăng tuổi ngọc ngà
Hình dáng vẫn yêu vì đẹp mộng
Xác thân vương hận bởi đào hoa
Bình yên được phút giờ không có
Kinh sợ quá trời ới mẹ cha
(đọc ngược)
THẾ SAO TÌNH
Minh Giang
Cha mẹ ới trời quá sợ kinh
Có không giờ phút được yên bình
Hoa đào bởi hận vương thân xác
Mộng đẹp vì yêu vẫn dáng hình
Ngà ngọc tuổi trăng tròn đó bạn
Úa vàng đời xế bóng đây mình
Nhà chung chẳng cảnh bao đau khổ
Xa mãi để ai nhớ hỡi tình
Bài họa của “người phương bắc”
(đọc xuôi)
KINH PHẬT
Người Phương Bắc
Tình đắng khi buồn lại cách xa
Xót đau thêm vắng mãi bên nhà
Mình luôn đợi nhớ thời son sắt
Bạn vẫn chờ mong thuở ngọc ngà
Hình bóng bao năm buồn sắc thắm
Xác than nhiều tháng rũ tàn hoa
Bình an sẽ đến mùa yêu dấu
Kinh phật tu long dặn mẹ cha
(đọc ngược)
PHẬT KINH
Người Phương Bắc
Cha mẹ dặn long tu phật kinh
Dấu yêu mùa đến sẽ an bình
Hoa tàn rũ tháng nhiều than xác
Thắm sắc buồn năm bao bóng hình
Ngà ngọc thuở mong chờ vẫn bạn
Sắt son thời nhớ đợi luôn mình
Nhà bên mãi vắng đêm đau xót
Xa cách lại buồn khi đắng tình
Bài xướng của anh Việt Hồng
(đọc xuôi)
TỰ TÌNH
Việt Hồng (Thợ đóng gạch)
Con sông mãi chảy mát trong dòng
Tưới đất vun đời với ước mong
Son sắc một thuyền đâu đợi đến
Thủy chung bao mái xoải chờ ngong
Còn vương bụi liễu tơ hồng phận
Đợi ấy guồng dây sợi tím lòng
Non nước vui tình tâm bái vọng
Sòn đô nhạc họa múa chưa xong
(đọc ngược)
TÌNH TỰ
Việt Hồng
Xong chưa múa nhạc họa đô sòn
Vọng bái tâm tình vui nước non
Lòng tím sợi dây guồng ấy đợi
Phận hồng tơ liễu bụi vương còn
Ngong chờ xoải mái bao chung thủy
Đến đợi đâu thuyền một sắc son
Mong ước với đời vun đất tưới
Dòng trong mát chảy mãi sông con
Bài họa của Minh Giang
(đọc xuôi)
TÌNH CẢM
Minh Giang
Con thuyền đón gió ngược xuôi dòng
Bến đó ngày đêm mãi nhớ mong
Son đỏ nhạt màu vì đã đợi
Mực đen phai sắc bởi trông ngong
Còn không mộng tưởng nên duyên số
Hết chửa mê cơn thỏa dạ lòng
Non núi nặng thề câu ước nguyện
Sòn pha điệu nhạc đấy rồi xong
(đọc ngược)
CẢM TÌNH
Minh Giang
Xong rồi đấy điệu nhạc pha sòn
Nguyện ước câu thề nặng núi non
Lòng dạ thỏa cơn mê chửa hết
Số duyên nên tưởng mộng không còn
Ngong trông bởi sắc phai đen mực
Đợi đã vì màu nhạt đỏ son
Mong nhớ mãi đêm ngày đó bến
Dòng xuôi ngược gió đón thuyền con
THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ ĐƯỜNG LUẬT VẦN TRẮC
Về căn bản Niêm, Luật, Vần, Đối thì thơ Thất Ngôn Bát Cú Vần Trắc cũng giống y như thơ Thất Ngôn Bát Cú Vần Bằng. Nhưng chỉ khác một điểm là ngược lại, những tiếng cuối các câu 1-2-4-6-8 thay vì vần bằng thì ở đây lại là vần trắc, và những tiếng cuối các câu 3-5-7 thay vì trắc thì lại là bằng.
Đây là lối thơ cổ, có trước thơ vần bằng. Luật vần trắc thường được áp dụng trong thể Phú là một loại Cổ Văn.
Sau đây là bảng luật thơ:
1. LUẬT BẰNG:
b - B - t - T - B - B - T (vần)
t - T - b - B - B - T - T (vần)
t - T - b - B - T - T - B (đối câu 4)
b - B - t - T - B - B - T (vần - đối câu 3)
b - B - t - T - T - B - B (đối câu 6)
t - T - b - B - B - T - T (vần - đối câu 5)
t - T - b - B - T - T - B
b - B - t - T - B - B - T (vần)
Ghi chú: chữ t-b nhỏ không nhất thiết phải giữ đúng luật bằng trắc, nhưng nếu tiếng đáng trắc mà làm ra bằng thì được, trái lại tiếng đáng bằng mà làm ra trắc thì không nên. Các chữ T-B lớn phải tuyệt đối giữ đúng luật.
Bài thơ thí dụ để làm mẫu minh họa:
THU
Thu về lá rụng cành xơ xác
Gió cuốn hoa tàn rơi lác đác
Cạnh suối nai vàng đứng nhởn nhơ
Bên hồ thỏ trắng nhìn ngơ ngác
Mù mù góc biển cặp chim âu
Mịt mịt chân trời đôi cánh hạc
Khói trắng bay hoài tận nẻo xa
Mưa buồn rả rích hòa cung nhạc
Hoàng Thứ Lang
2. LUẬT TRẮC:
t - T - b - B - B - T - T (vần)
b - B - t - T - B - B - T (vần)
b - B - t - T - T - B - B (đối câu 4)
t - T - b - B - B - T - T (vần - đối câu 3)
t - T - b - B - T - T - B (đối câu 6)
b - B - t - T - B - B - T (vần - đối câu 5)
b - B - t - T - T - B - B
t - T - b - B - B - T - T (vần)
Ghi chú: chữ t-b nhỏ không nhất thiết phải giữ đúng luật bằng trắc, nhưng nếu tiếng đáng trắc mà làm ra bằng thì được, trái lại tiếng đáng bằng mà làm ra trắc thì không nên. Các chữ T-B lớn phải tuyệt đối giữ đúng luật.
Bài thơ thí dụ để làm mẫu minh họa:
HÈ
Phượng đỏ sân trường thêm rực rỡ
Trưa Hè tiếng gió buồn than thở
Du dương khúc nhạc vọng thê lương
Réo rắc cung đàn nghe nức nở
Trước ngõ cành lan trắng nụ đơm
Bên tường khóm cúc vàng hoa trổ
Mây bay lảng đảng tận phương nao
Bãi biển rì rào con sóng vỗ
Hoàng Thứ Lang