NGUYỄN KHUYẾN - NHÀ THƠ TRÀO PHÚNG
Khôi hài là 1 đặc tính của dân tộc Việt nam, nói lên tinh thần lạc quan đối với con người và cuộc sống. Nguyễn Khuyến đã thừa hưởng và góp phần phát huy đặc tính đó. Với thơ ca, ông đã thực sự là 1 nhà thơ trào phúng : cười người và cười mình .
Với cớ đau mắt, Nguyễn Khuyến đã từ quan về hưu, sống với dân làng. Nhưng lý do chính là : ông không muốn cộng tác với thực dân Pháp và triều đình bù nhìn để bóc lột dân. Vì ông thấy rằng : trong 1 xã hội mà Vua quan đều như "phường chèo", thì ông chả làm được gì, dù có danh vị tiến sĩ như ông thì cũng chỉ như là "tiến sĩ giấy" :
Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe
Nghĩ rằng đồ thật, hoá đồ chơi. (Vịnh tiến sĩ giấy)
Dưới ách đô hộ của thực dân và phong kiến, cái nghèo khổ như 1 màn đêm bao trùm đất nước, trừ 1 ít người ngay chính, chỉ có những kẻ ăn mảnh, đi đêm với thực dân như quan kinh lược Bắc Kỳ Hoàng cao Khải, Tổng đốc Vũ văn Báo, quan tuần Tiên Khoán, quan huyện Thanh Liêm, ông tổng Cóc.mới trở nên giầu nhờ vơ vét của dân. Thương dân, Nguyễn Khuyến bênh họ bằng cái cười để các quan lại bỏ thói bợ đỡ các quan Tây, bớt hà hiếp dân lành
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ
Ngày trước làm quan cũng thế a ? (Vịnh Kiều bán mình)
Hoặc :
Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt
Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen (Tặng Đốc Học Hà Nam)
Nhà thơ đã cười và khuyên quan tuần , người mà sau khi bị mất cướp, lại còn ê ẩm bộ xương già da cóc giữa đồng :
Thôi cũng đừng nên ky cóp nữa
Kẻo mang tiếng dại với phường ngông
(Thăm quan Tuần mất cướp)
Ngay cả kinh lược đại thần Hoàng cao Khải, tay sai số 1 của thực dân Pháp trên đất Bắc, ông cũng chẳng nể nang khi ứng khẩu đọc 4 câu thơ tả "Ông phỗng đá" mà chính quan ra đề :
Ông đứng làm chi đó hỡi ông
Trơ trơ như đá vững như đồng
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó
Non nước đầy vơi có biết không?
Đây là ông Phỗng hay chính là quan phụ mẫu chi dân ?
Nhưng cái cười hay nhất và đẹp nhất của Nguyễn Khuyến, là tự cười mình. Đây là cả 1 nghệ thuật mà nếu không có tâm hồn như ông, khó có thể làm được. Khác với nhà thơ Tú Xương có cái cười chửi đời, ngông nghênh; Nguyễn Khuyến thường mượn cái cười để bộc bạch tâm sự.
Là 1 nho sĩ thành đạt, Nguyễn Khuyến đã bước vào hoạn lộ với tấm lòng yêu nước thương dân. Ông tin tưởng vào tài năng, chức vụ, và nhất là lòng chân thành của mình, có thể giúp triều đình tế thế an dân, đem lại ấm no cho trăm họ. Thế nhưng với sự sáng suốt, ông cũng đã nhìn ra rất sớm 1 triều đình nhu nhược, bù nhìn trước sức mạnh của người Pháp, và sự đổ vỡ chua cay của nền Hán học :
Sách vở ích gì cho buổi ấy
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.(Ngày xuân dặn các con)
Với tâm sự u uất :
Nghĩ đến bút nghiên trào nước mắt
Ngước nhìn sông núi xiết buồn đau.
Thế rồi ông xoay ra cười mình, với nụ cười chua chát :
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng (Tự trào )
Ông đã can đảm từ quan để về làm 1 người dân :
Cũng chẳng giầu mà cũng chẳng sang
Chẳng gầy chẳng béo chỉ làng nhàng
Lúc hứng đánh thêm ba chén rượu
Khi buồn ngâm láo mấy vần thơ (Tự Trào )
Và để hiểu sâu hơn cái cười và tâm hồn của nhà thơ, chúng ta cùng nhìn sang 1 khía cạnh khác của ông : đó là lòng yêu nước chân thành, sâu sắc .
----
_________________
Trăm năm trong cõi người ta,
Mua vui cũng được một vài trống canh.